Hình ảnh

Hình ảnh
Ảnh Đỗ Võ Cẩm Thạch

Thứ Năm, 20 tháng 12, 2012

Nguyễn Nhược Pháp - Cô gái chùa Hương...


[Hình: 1335409722-nguyenhuocphap-tam-eva.jpg]
Nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp

NGUYỄN  NHƯỢC  PHÁP  - CÔ GÁI CHÙA HƯƠNG SỐNG MÃI TUỔI 15
Đỗ Ngọc Thạch
Nhà thơ lớn người Avar xứ Daghestan Rasul Gamzatov (*) có viết : “Mặt đất tối sầm nếu không có thơ ca”. Đó là chân lý vĩnh cửu.
Song, ta hãy hình dung, nếu như Thi đàn Việt Nam vào đầu TK20 chỉ có những câu thơ quay cuồng say đảo: “Say đi em! Say đi em! / Say cho lơi lả ánh đèn, / Cho cung bậc ngả nghiêng. Điên rồ xác thịt, / Rượu, rượu nữa, và quên, quên hết!” của Vũ Hoàng Chương (1); hoặc chỉ có những câu thơ “sống gấp” “thà một phút huy hoàng rồi chợt tối” của Xuân Diệu (2): “…Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, / Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, / Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều /…Cho no nê thanh sắc của thời tươi: / - Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”; hoặc chỉ có những câu thơ buồn đau tuyệt vọng của Chế Lan Viên (3): “Tôi có chờ đâu, có đợi đâu: / Đem chi xuân lại gợi thêm sâu? /-Với tôi tất cả như vô nghĩa, / Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!”,v.v…Nếu tình hình đó có thể xảy ra thì…giống nòi Việt đã bị tiệt chủng từ lâu! Song, nó đã không xảy ra bởi vì đã có những Thi nhân xuất hiện và cứu giống nòi thoát khỏi hiểm họa tiệt chủng đó! Đó là những Thi nhân của Hồn Việt trường sinh bất tử, mà một trong số đó là Nguyễn Nhược Pháp (**) - Thi sĩ “Sống mãi tuổi mười lăm” cùng Cô gái Chùa Hương!...
Tôi bỗng nhận ra rằng, bài thơ Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp sở dĩ trẻ mãi không già mà sống mãi đến ngày hôm nay với chúng ta vì trong bài thơ có nhân vật trữ tình là cô gái mười lăm tuổi đi trẩy hội Chùa Hương. Và tôi cứ nghĩ, hãy trả bài thơ về với tên gọi lúc mới chào đời của nó là Cô gái Chùa Hương, bởi cảm xúc ban đầu bao giờ cũng tràn đầy thi hứng!...
*
Mồ côi mẹ từ năm lên hai tuổi, nhưng chưa có ai biết họ tên thật  cũng như xuất xứ quê quán của thân mẫu nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp! Chỉ biết khi ấy bà là một người đẹp có danh phận, là con gái yêu của một thổ ty giàu có ở mạn ngược vùng Lạng Sơn? Tuy nhiên, cậu bé Nguyễn Nhược Pháp may mắn được nằm trong vòng tay thân ái của bà vợ cả cụ Nguyễn Văn Vĩnh.
Cậu bé được cha mẹ coi sóc cẩn thận cho học hành tử tế. Bằng cớ là Nguyễn Nhược Pháp sau khi đậu tú tài rồi vào trường Cao đẳng Luật Đông Dương. Như là muốn nối chí hay có gien người cha, Nguyễn Nhược Pháp không sung vào bất kỳ ngạch quan lại lẫn công chức nào mà đi làm văn làm báo...và làm thơ. Chính vì thế chúng ta mới có nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp.
Ngoài Chùa Hương, Nguyễn Nhược Pháp còn có bài thơ đặc sắc Tay Ngà và bài thơ dài  Sơn Tinh Thủy Tinh.
Tay ngà đã làm sống lại cảnh tượng “Vinh quy bái tổ” của các Quan Trạng ngày xưa - cái hình ảnh mà bất cứ chàng thư sinh nào cũng mơ ước:
Ta ngồi bên tảng đá
Mơ lều chiếu ngày xưa,
Mơ quan Nghè, quan Thám
Đi có cờ lọng đưa.
Và đây mới là hình ảnh tươi tắn chỉ thấy ở thơ Nguyễn Nhược Pháp:
Trên lầu mấy thị nữ
Cùng nhau rúc rích cười:
"Thưa cô đừng thẹn nữa
Quan Nghè trông lên rồi".

Cúi đầu nàng tha thướt,
Yêu kiều như mây qua.
Mắt xanh nhìn man mác,
Mỉm cười vê cành hoa.
Hoài Thanh nói Nguyễn Nhược Pháp lòng trong trắng như hồi còn thơ thì quả là không còn cách nói nào đúng hơn và hay hơn! Ta hãy đọc lại nguyên văn bài Tay ngà:
TAY NGÀ
Đêm nay chờ trăng mọc,
Ngồi thẩn thơ trong vườn,
Quanh hoa lá róc rách
Như đua bắt làn hương.

Ta ngồi bên tảng đá
Mơ lều chiếu ngày xưa,
Mơ quan Nghè, quan Thám
Đi có cờ lọng đưa.

Rồi bao nàng yểu điệu.
Ngấp nghé bay trên lầu;
Vừa leng keng tiếng ngựa,
Lẹ gót tiên gieo cầu.

Tay vơ cầu ngũ sắc,
Má quan Nghè hây hây.
Quân hầu reo chuyển đất,
Tung cán lọng vừa quay.

Trên lầu mấy thị nữ
Cùng nhau rúc rích cười:
"Thưa cô đừng thẹn nữa
Quan Nghè trông lên rồi".

Cúi đầu nàng tha thướt,
Yêu kiều như mây qua.
Mắt xanh nhìn man mác,
Mỉm cười vê cành hoa.

Ta còn đang luyến mộng,
Yêu bóng người vẩn vơ;
Tay ngà ai phủ trán ?
- Hiu hắt ánh trăng mờ...

(Ngày xưa)
*
Đối với những kiệt tác thi ca, người ta thường muốn truy tìm xuất xứ của nó. Đó là một nhu cầu chính đáng. Và nhà thơ Nguyễn Vỹ đã cho chúng ta biết xuất xứ của Chùa Hương trong cuốn Văn sĩ Thi sĩ Tiền chiến.

Hội Chùa Hương năm 1934, Nguyễn Nhược Pháp cùng nhà thơ Nguyễn Vỹ và hai người bạn nữ sinh Hà thành đi trẩy hội. Đến rừng mơ, hai Thi nhân gặp một bà mẹ cùng cô gái độ tuổi trăng tròn vừa bước lên những bậc đá vừa niệm Phật “Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Đại Từ Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát”.

Vẻ đẹp chân quê và khuôn mặt thánh thiện của cô gái đã hớp hồn hai chàng thi sĩ khiến họ say mê ngắm nhìn mà quên đi hai cô bạn gái cùng đi. Nguyễn Nhược Pháp lại gần hỏi: “Tại sao trông thấy chúng tôi cô lại không niệm phật nữa?”. Cô gái bối rối, thẹn thùng ... Hai người bạn gái gọi hai chàng thi sĩ để đi tiếp nhưng họ đâu còn nghe thấy gì ngoài tiếng niệm Phật của cô gái còn vương vất đâu đây! Hai người bạn gái giận dỗi, bỏ đi. Lúc bừng tỉnh, hai chàng thi sĩ không thấy các cô đâu, vội len lách đuổi theo qua dòng người đang trẩy hội nhưng tìm đâu thấy? Mệt và ngán ngẩm, hai thi sĩ quay lại tìm cô gái chân quê thì cả hai mẹ con cũng đâu còn chỗ cũ? Họ đã lẫn vào dòng người nhộn nhịp kia, sao mà tìm?
Đêm đó, Nguyễn Nhược Pháp trằn trọc không nguôi. Hình ảnh cô gái chân quê đi chùa Hương khiến chàng trai xúc động viết lên những vần thơ có sắc màu rực rỡ, hình ảnh tươi vui, tất cả cảnh tượng sống động của mùa trẩy hội chùa Hương ngày xưa hiện lên trên từng câu, từng chữ:

Hôm nay đi chùa Hương,
Hoa cỏ mờ hơi sương
Cùng thầy me em dậy,
Em vấn đầu soi gương.

Khăn nhỏ, đuôi gà cao;
Em đeo dải yếm đào;
Quần lĩnh, áo the mới;
Tay cầm nón quai thao...

Cô gái chùa Hương khi in vào tập Ngày Xưa thì hai chữ Cô gái bị bỏ đi, chỉ còn Chùa Hương. Trước đây nhạc sĩ Trần Văn Khê đã phổ nhạc bài thơ song dường như chưa bắt trúng nhạc điệu của Chùa Hương. Phải đợi đến nghệ sĩ Trung Đức, gần 60 năm sau, qua lần đi Hương Sơn đã cộng cảm với Thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp mà phổ nhạc bài thơ, thêm bớt lời, để thành bài hát Em  đi chùa Hương. Ngay từ lần phát sóng đầu tiên, Em đi chùa Hương đã được đông đảo thính giả ưa thích và nhanh chóng được phổ biến rộng rãi:

Hôm nay em đi chùa Hương
Hoa cỏ còn mờ hơi sương
Cùng thầy me em vấn đầu soi gương
Khăn nhỏ, đuôi gà cao
Em đeo giải yếm đào
Quần lãnh, áo the mới
Tay em cầm chiếc nón quai thao
Chân em di đôi guốc cao cao

Đường đi qua bến Đục
Moi người ngắm nhìn em
Thẹn thùng em không nói
Em bây giờ mới tuổi mười lăm
Em hãy còn bé lắm (chứ) mấy anh ơi

Đường đi qua Đồng Vọng
Mọi người ngắm nhìn em
Thẹn thùng em không nói
Nam mô A Di Đà
Nam mô A Di Đà

Đến nay, bài thơ Chùa Hương đã 76 tuổi, Nguyễn Nhược Pháp đã qua đời được 72 năm, song Chùa Hương cùng tên tuổi nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp vẫn sống mãi với Chùa Hương, với thời gian, ở độ tuổi mười lăm!

CHÙA HƯƠNG

(Thiên ký sự của một cô bé ngày xưa)

Hôm nay đi chùa Hương,
Hoa cỏ mờ hơi sương
Cùng thầy me em dậy,
Em vấn đầu soi gương.

Khăn nhỏ, đuôi gà cao;
Em đeo dải yếm đào;
Quần lĩnh, áo the mới;
Tay cầm nón quai thao.

Me cười: "Thầy nó trông !
Chân đi đôi dép cong,
Con tôi xinh xinh quá !
Bao giờ cô lấy chồng ?"

- Em tuy mới mười lăm
Mà đã lắm người thăm,
Nhờ mối mai đưa tiếng,
Khen tươi như trăng rằm.

Nhưng em chưa lấy ai,
Vì thầy bảo người mai
Rằng em còn bé lắm.
Ý đợi người tài trai.

Em đi cùng với me.
Me em ngồi cáng tre.
Thầy theo sau cưỡi ngựa,
Thắt lưng dài đỏ hoe.

Thầy me ra đi đò.
Thuyền mấp mênh bên bờ.
Em nhìn sông nước chảy,
Đưa cánh buồm lô nhô.

Mơ xa lại nghĩ gần.
Đời mấy kẻ tri âm ?
Thuyền nan vừa lẹ bước,
Em thấy một văn nhân.

Người đâu thanh lạ nhường !
Tướng mạo trông phi thường.
Lưng cao dài, trán rộng.
Hỏi ai nhìn không thương ?

Chàng ngồi bên me em,
Me hỏi chuyện làm quen:
"Thưa thầy đi chùa ạ ?
Thuyền đông trời ôi chen !"

Chàng thưa vâng thuyền đông,
Rồi ngắm trời mênh mông,
Xa xa mờ núi biếc,
Phơn phớt áng mây hồng.

Dòng sông nước đục lờ.
Ngâm nga chàng đọc thơ.
Thầy khen hay, hay quá !
Em nghe rồi ngẩn ngơ.

Thuyền đi, bến Đục qua.
Mỗi lúc gặp người ra,
Thẹn thùng em không nói :
"Nam Mô A Di Đà !"

Réo rắt suối đưa quanh,
Ven bờ, ngọn núi xanh,
Nhịp cầu xa nho nhỏ:
Cảnh đẹp gần như tranh.

Sau núi Oán, Gà, Xôi,
Bao nhiêu là khỉ ngồi,
Tới núi con Voi phục,
Có đủ cả đầu đuôi.

Chùa lấp sau rừng cây.
(Thuyền ta đi một ngày)
Lên cửa chùa em thấy
Hơn một trăm ăn mày.

Em đi, chàng theo sau.
Em không dám đi mau,
Ngại chàng chê hấp tấp,
Số gian nan không giàu.

Thầy me đến điện thờ,
Trầm hương khói tỏa mờ.
Hương như là sao lạc,
Lớp sóng người lô nhô.

Chen vào thật lắm công.
Thầy me em lễ xong,
Quay về nhà ngang bảo :
"Mai mới vào chùa trong."

Chàng hai má đỏ hồng
Kêu với thằng tiểu đồng
Mang túi thơ bầu rượu :
"Mai ta vào chùa trong !"

Đêm hôm ấy em mừng !
Mùi trầm hương bay lừng.
Em nằm nghe tiếng mõ,
Rồi chim kêu trong rừng.

Em mơ, em yêu đời,
Mơ nhiều... Viết thế thôi,
Kẻo ai mà xem thấy,
Nhìn em đến nực cười.

Em chưa tỉnh giấc nồng,
Mây núi đã pha hồng.
Thầy me em sắp sửa
Vàng hương vào chùa trong.

Đường mây đá cheo leo,
Hoa đỏ, tím, vàng leo.
Vì thương me quá mệt,
Săn sóc chàng đi theo.

Me bảo: "Đường có lâu,
Cứ vừa đi ta cầu
Quan Thế Âm Bồ Tát
Là tha hồ đi mau"

Em ư ? Em không cầu,
Đường vẫn thấy đi mau.
Chàng cũng cho như thế.
(Ra ta hợp tâm đầu)

Khi qua chùa Giải oan,
Trông thấy bức tường ngang,
Chàng đưa tay, lẹ bút
Thảo bài thơ liên hoàn.

Tấm tắc thầy khen hay,
Chữ đẹp như rồng bay.
(Bài thơ này em nhớ
Nên chả chép vào đây).

Ô ! Chùa trong đây rồi !
Động thắm bóng xanh ngời.
Gấm thêu trần thạch nhũ,
Ngọc nhuốm hương trầm rơi.

Me vui mừng hả hê:
"Tặc ! Con đường dài ghê !"
Thầy kêu mau lên nhé,
Chiều hôm nay ta về.

Em nghe bỗng rụng rời !
Nhìn ai luống nghẹn lời !
Giờ vui đời có vậy,
Thoảng ngày vui qua rồi !

Làn gió thổi hây hây,
Em nghe tà áo bay,
Em tìm hơi chàng thở !
Chàng ơi, chàng có hay ?

Đường dây kia lên trời,
Ta bước tựa vai cười,
Yêu nhau, yêu nhau mãi !
Đi, ta đi, chàng ơi !

Ngun ngút khói hương vàng,
Say trong giấc mơ màng,
Em cầu xin Trời Phật
Sao cho em lấy chàng.

(Thiên ký sự đến đây là hết. Tôi tin rồi hai người lấy nhau, vì không lấy được nhau thì cô bé còn viết nhiều. Lấy nhau rồi là hết chuyện). (Nguyễn Nhược Pháp).

*

Những lời bình thơ Nguyễn Nhược Pháp của Hoài Thanh trong cuốn Thi Nhân Việt Nam dường như thoải mái, sảng khoái nhất bởi dường như là thơ Nguyễn Nhược Pháp hợp với “gu thẩm mỹ” của nhà phê bình. Ở thơ Nguyễn Nhược Pháp, nhà phê bình không phải cân nhắc đắn đo, không phải rào trước đón sau, cũng không phải “vòng vo Tam quốc” mà thoải mái mở đầu rằng : “Thơ in ra rất ít mà được người ta mến rất nhiều, tưởng không ai bằng Nguyễn Nhược Pháp”, và bùi ngùi hạ bút câu kết rằng :  “Người mất năm hai mươi bốn tuổi, lòng trong trắng như hồi còn thơ”. Tưởng không còn có lời khen tặng nào hơn! Vì thế, để cảm nhận hết vẻ đẹp của thơ Nguyễn Nhược Pháp, không gì bằng đọc lại lời bình của nhà Phê bình có “Con Mắt Xanh” Hoài Thanh và đọc thêm vài bài trong tập Ngày xưa của Thi sĩ sống mãi tuổi mười lăm này:

 “…Thơ in ra rất ít mà được người ta mến rất nhiều, tưởng không ai bằng Nguyễn Nhược Pháp.
Không mến sao được? Với đôi ba nét đơn sơ, Nguyễn Nhược Pháp đã làm sống lại cả một thời xưa. Không phải cái thời xưa nặng nề của nhà sử học, cũng không phải cái thời xưa tráng lệ hay mơ màng của Huy Thông (4), mà là một thời xưa gồm những màu sắc tươi vui, những hình dáng ngộ nghĩnh. Thời xưa ở đây đã mất hết cái vẻ rầu rĩ cố hữu và đã biết cười, cái cười của những “thắt lưng dài đỏ hoe”, những đôi “dép cong” nho nhỏ. Những cảnh ấy vốn có thực. Nhưng dầu sự thực không có thì nhà thơ sẽ tạo ra, khó gì. Mặc cho những nhà khảo cổ cặm cụi tìm nguyên do câu chuyện hai vị thần dành nhau một nàng công chúa, thi nhân cứ cho là có thực và người thấy khi Thủy Tinh đã bắt quyết gọi mưa để khoe tài, thì Sơn Tinh chẳng chịu thua, liền:

Vung tay niệm chú: Núi từng dải,
Nhà lớn, đồi con lổm cổm bò
Chạy mưa.

Sáng hôm sau, Thủy Tinh cưỡi rồng vàng đến xin cưới:

Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai,
Khập khiễng bò lê trên đất lạ,
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai.
Nhưng chậm mất rồi. Sơn Tinh đã đến trước. Tức quá, Thủy Tinh liền ra lệnh cho bọn đồ đệ dương oai:

Cá voi quác mồm to muốn đớp,
Cá mập quẫy đuôi cuồng nhe răng.
Càng cua lởm chởm giơ như mác;
Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao.
Ai xem những cảnh ấy mà không buồn cười. Thi nhân cũng chỉ muốn thế: kiếm chuyện cười chơi.

Cũng có khi người cười những nhân vật chính người tạo ra, như cái cô bé đi Chùa Hương trong thiên ký sự chép những câu thật thà:

Em đi, chàng theo sau.
Em không dám đi mau,
Ngại chàng chê hấp tấp,
Số gian nan không giầu.


Có khi chẳng còn biết người muốn cười ai. Sau khi tả cái đẹp của Mỵ Nương, người thêm một câu:

Mê nàng, bao nhiêu người làm thơ,

Người vờ ngơ ngẩn để kiếm cớ diễu mình chơi, hay người muốn diễu những kẻ đứng trước gái đẹp bỗng thấy hồn thơ lai láng?

Lại có khi không diễu mình không diễu người, thi nhân cũng cười: cười vì một cảnh ngộ. Như khi Sơn Tinh và Thủy Tinh cùng đến hỏi Mỵ Nương, Hùng Vương sung sướng nhìn con:

Nhưng có một nàng mà hai rể,
Vua cho rằng cũng hơi nhiều.


Đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, lúc nào hình như cũng thoáng thấy bóng một người đương khúc khích cười. Nhưng cái cười của Nguyễn Nhược Pháp khác xa những lối bông lơn, khó chịu của các ông tú, từ Tú Suất (5), Tú Xương (6), đến Tú Mỡ (7). Nó hiền lành và thanh tao. Nội chừng ấy có lẽ cũng đủ cho nó có một địa vị trên thi đàn. Nhưng còn có điều này nữa mới thật quý: với Nguyễn Nhược Pháp nụ cười trên miệng bao giờ cũng kèm theo một ít cảm động trong lòng. Những cảnh, những người đã khiến thi nhân cười cũng là những cảnh, những người thi nhân mến. Người mến cô bé đi Chùa Hương và cùng cô bé san sẻ nỗi ước mơ, sung sướng, buồn rầu. Người mến nàng Mỵ Nương. Lúc Mỵ Nương từ biệt cha đi theo chồng, người thấy:

Lầu son nàng ngoái trông lần-nữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.


rồi:

Nhìn quanh khói tỏa buồn man mác,
Nàng kêu: "Phụ Vương ôi! Phong-châu!


Một điều lạ là những câu tình tứ như thế ghép vào bên cạnh những câu đến buồn cười mà không chút bỡ ngỡ. Cái duyên của Nguyễn Nhược Pháp là ở đó.

Chắc Nguyễn Nhược Pháp không chịu ảnh hưởng A. France (8), nhưng xem Ngày Xưa tôi cứ nhớ đến cái duyên của tác giả Le livre de mon ami (9). Phải chăng Nguyễn Nhược Pháp cũng hay diễu đời và thương người như A. France? Không, nói diễu đời e không đúng. Nguyễn Nhược Pháp còn hiền lành hơn. Nguyễn Nhược Pháp chỉ muốn tìm những cảnh, những tình có thể mua vui. Dầu sao, tôi thấy Nguyễn Nhược Pháp già lắm, khác hẳn người bạn chí thân của người là Huy Thông. Người nhìn đời như một ông già nhìn đàn trẻ con rất ngộ nghĩnh mà cũng rất dễ yêu, mặc dầu người vẫn còn trẻ lắm. Người mất năm hai mươi bốn tuổi, lòng trong trắng như hồi còn thơ”.
Đi Cống
(**) Lệ cống thì phải chọn nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy toán số và thợ thuyền mỗi hạng ba người, cùng các đồ sản vật như là sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu và các vật lạ.

Núi cao, lửa hồng reo chói lọi,
Đổ vàng cây cối um tùm xanh.
Khi lòe nắng lóa, khi thâm tối,
Sườn non con đường mềm uốn quanh.

Hiu hắt cờ bay tua phơ phất,
Binh lính hò reo gầm bốn phương.
Nón đỏ, bao vàng, chân dậm đất,
Một toán đạp rừng um dẫn đường.

Mặc áo bào xanh, ngồi ngựa trắng,
Sứ nghe nhạc lắc vang bên rừng.
Hai bên hai lọng vàng che nắng.
Giời, mây, trông non nước muôn trùng!

Mười xe bịt đồng, trâu mập kéo,
Bánh sắt khi kề lên sườn non,
Đá đổ ầm ầm như sấm réo,
Gầm nhảy xuống vực sâu kêu ròn.

Trên xe nào mâm vàng dát ngọc,
Châu báu, sừng tê và ngà voi;
Hai pho tượng vàng đỏ đòng đọc;
Bào nạm kim-cương, đai đồi-mồi.

Binh lính hò quanh hoa giáo mác
- Võ tướng khua đao to lầm lầm -
Hễ thấy đường chênh kề miệng thác,
Bỏ giáo lên xe xoay bánh, vần.

Thầy nho, thầy thuốc bên thầy bói,
Thợ thêu, thợ chạm cùng thợ nề,
Mỗi người đeo một cái khăn gói
Đỏ, buông cương ngựa theo gần xe.

Lúc ấy giời xanh không u ám,
Đầu non không tờ mờ bóng sương,
Làm sao họ âu sầu thảm đạm?
Buồn thay! người cố phận tha hương.

Xe đi mỗi lúc một thêm khó.
Hang thâu hổ đói rên vang lừng;
Những con trăn xám văng như gió,
Quật đuôi đè gẫy bẹp cây rừng.

Sứ bỗng nhìn quanh buồn ủ rũ:
Xa xa ngọn cờ vàng phất phơ!
Vợ con ở chân trời mây phủ,
Hẳn đang nhìn bóng nhạn mong chờ...

Hỡi ai đi thẩn thơ miền núi!
Nhìn ngọn cây xanh gió thổi ào,
Tưởng lại cờ xưa vàng chói lọi,
Nên yêu người cũ hồn trên cao.

(10-3-1933)

Mỵ
Buồm nhô rẽ sóng, Mỵ mơ màng,
Tay cuốn mền hoa, khóc gọi chàng.
Thân liễu gieo đưa chìm vực biếc,
Lời thương bay lảnh động rừng vang.
Hoa trôi. Thành cũ vườn mây lửa,
Lau gợn. Chùa cao giỏ tiếng vàng.
Ủ lệ, tay ngà ôm ngực huyết,
Mỵ vờn theo sóng dạt bờ hoang.
(5-1933)

Mỵ Châu
(Lẫy thần chàng đổi móng,
Lông ngỗng thiếp đưa đường.
- Nguyễn Khắc Hiếu -)

I

Đêm hôm gió khóc thổi ru cành:
Núi bạc âm thầm, bể uốn xanh.
Hiu hắt Mỵ-Châu nằm, trăng phủ.
Ầm ầm sóng thảm vỗ vờn quanh.

Cát vàng le lói muôn hàng châu:
Long lanh trai tuyết nhìn canh thâu.
Thương ai sao biếc thầm gieo lệ.
Sương mờ bay tỏa bạc ngàn lau.

Chân nàng hoa lả nhuốm màu sương.
Vừng trăng lạnh lẽo, chim kêu buồn.
Thân ngà tóc rủ vờn man mác,
Thiêm thiếp em chờ ai bên đường?

II

Bơ vơ Trọng-Thủy lạc rừng hoang,
Vời theo lông ngỗng rơi bên đàng;
Đau lòng mắt nặng rùng đêm lạnh
Thoảng tiếng trăng thưa chen lá vàng.

Lẫy thần trao móng, chàng đi xa.
Yêu nhau sao nỡ bạc nhau mà?
Chàng đi - cho bao giờ gặp gỡ! -
Phiên-ngung nước cũ, lệ chan hòa.

Nào lúc con thuyền sóng vỗ quanh,
Hiu hiu mây thoảng da trời xanh,
Xiêm bay theo gió, hồn vơ vẩn.
Gương biếc nàng xưa êm tô hình.

Nào lúc chiều hôm vang lửa hồng,
Chim bay tan tác, trời mênh mông.
Lẹ gót hài tiên nàng yểu điệu,
Bên lầu tựa cửa cuốn rèm trông.

Nào lúc đêm thanh mờ bóng trăng,
Nhìn thấy nàng gợi tiếng dương cầm.
Tóc liễu đua bay vờn má ngọc,
Lời ca thánh thót, chàng quên chăng?

Bơ vơ ngày cũ tưởng càng đau,
Tìm trông phương nào, hỡi Mỵ-Châu?
Lông ngỗng cầm tay nhòa ánh lệ,
Chàng đi man mác buồn, đêm thâu.

III

Thiêm thiếp ai bên đường, hỡi ôi!
Chàng ôm khóc nghẹn chẳng ra lời,
- Đầu non mây bạc êm đềm phủ,
Phơn phớt hồn em bay, ngậm cười...
(1-1933)

Mây
Người xưa mơ, nhìn mây
Đen, đỏ, vàng đua bay,
Khi thấy nhiều ma quỷ,
Lời than giời lung lay;

Khi thấy hồn người thân
- Nhìn mây lệ khôn cầm! -
Trên bầy xe tứ mã,
Tiếng bánh lăn âm thầm;

Khi thấy muôn nàng tiên
- Lồng lộng mầu thanh thiên! -
Véo von trầm tiếng địch,
Lửa hồng vờn áo xiêm.

Ngày nay ta nhìn mây,
Mây đen luồng gió lay,
Hồn xưa tìm chẳng thấy
Tóc theo luồng gió bay...
(25-1-1934)
Sài Gòn, tháng 9-2010
Đỗ Ngọc Thạch
----
Chú thích:
(*) Rasul Gamzatov (1923-2003): Một trong những tên tuổi vĩ đại nhất trong nền văn học Nga. Các tác phẩm của Gamzatov được viết bằng tiếng Avar, ngôn ngữ của khoảng 500.000 người ở nước Cộng hoà tự trị Daghestan, vùng Caucasus và ngay lập tức được dịch sang tiếng Nga. Những bài thơ của ông khiến độc giả không chỉ ở Nga say mê bởi chúng giống như những bài ca của người Avar xứ Daghestan. Ông được biết đến bởi nhiều tập thơ (Trái tim tôi ở nơi những ngọn đồi, Đàn sếu, Bánh xe cuộc đời...). Nhiều bài thơ của ông đã được các nhạc sĩ tên tuổi phổ nhạc. Ông cũng nổi tiếng với nhiều tác phẩm văn xuôi và các bài báo. Độc giả Việt Nam đã biết đến Rasul Gamzatov qua tác phẩm Daghestan của tôi do Phan Hồng Giang và Bằng Việt dịch.
(**) Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938): sinh tại Hà nội, là con của nhà văn, nhà báo, dịch giả, học giả Nguyễn Văn Vĩnh (**1), quê quán: xã Phượng Dục, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội. Học tại trường Albert Sarraut và đỗ tú tài. Làm thơ từ sớm và đã từng viết cho các báo Annam Nouveau, Hà Nội Báo, Tinh hoa, Đông Dương Tạp chí.
Tác phẩm: Ngày xưa (1935) ;  Người học vẽ (1936).
Muốn hình dung ra phần nào hình ảnh Nguyễn Nhược Pháp, cách tốt nhất là đọc trong cuốn Thi nhân Việt Nam, của Hoài Thanh và Hoài Chân: “Thơ in ra rất ít mà được người ta mến rất nhiều, tưởng không ai bằng Nguyễn Nhược Pháp... Với đôi ba nét đơn sơ, Nguyễn Nhược Pháp đã làm sống lại cả một thời xưa…Đọc thơ Nguyễn Nhược Pháp, lúc nào hình như cũng thoáng thấy bóng một người đương khúc khích cười. Nhưng cái cười của Nguyễn Nhược Pháp khác xa những lối bông lơn, khó chịu của các ông tú, từ Tú Suất, Tú Xương, đến Tú Mỡ. Nó hiền lành và thanh tao. Nội chừng ấy có lẽ cũng đủ cho nó có một địa vị trên thi đàn. Nhưng còn có điều này nữa mới thật quý: với Nguyễn Nhược Pháp nụ cười trên miệng bao giờ cũng kèm theo một ít cảm động trong lòng…
Người mất năm hai mươi bốn tuổi, lòng trong trắng như hồi còn thơ”.
(**1) Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936): hiệu: Tân Nam Tử. Quê ở xã Phượng Dực, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông, nay thuộc Hà Nội. Ông học Trường Thông ngôn, lần lượt làm thư ký ở các Tòa Công sứ Lào Cai, Kiến An, Bắc Ninh và Tòa Đốc lý Hà Nội.
Năm 1906, ông được cử đi dự hội chợ ở Marseille, trở về với quyết tâm truyền bá quốc ngữ, ông xin thôi việc, mở nhà in, làm chủ bút nhiều tờ báo: Đại Nam đăng cổ tùng báo, Lục tỉnh tân văn, Đông Dương tạp chí, Trung Bắc tân văn và một số tờ báo tiếng Pháp Notre Journal (Tờ báo của chúng ta), Notre Revue (Tạp chí của chúng ta), l’Annam nouveau (An Nam mới).
Ông đã đóng góp rất nhiều trong việc phổ quát tiếng Việt qua tờ Đăng Cổ Tùng Báo (1907), tờ báo đầu tiên viết bằng chữ Quốc Ngữ tại miền Bắc. Đáng kể nhất là việc khuyến khích dùng chữ Quốc Ngữ qua tờ Đông dương Tạp chí (1913). Ngoài ra, ông còn nhiều công trình dịch thuật văn học như dịch thơ ngụ ngôn La Fontaine, truyện cổ tích Perrault, kịch Molière từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. Bảng dich truyện Kiều sang Pháp văn của ông rất đặc sắc.
(1) Vũ Hoàng Chương (1916-1976): quê Nam Định. Có bằng Tú tài Tây…Đã kinh qua Thanh tra sở hỏa xa miền Băc, dạy học tư… Tác phẩm: Thơ say (1940); Mây (1943); Thơ lửa (cùng Đoàn Văn Cừ, 1948); Rừng phong (1954); Hoa đăng (1959); Tâm sự kẻ sang Tần (1961); Lửa từ bi (1963); Ta đợi em từ 30 năm (1970);Đời vắng em rồi say với ai (1971);Chúng ta mất hết chỉ còn nhau (1973)...Kịch thơ: Trương Chi (1944); Vân muội (1944); Hồng diệp (1944).
(2) Xuân Diệu (1916 - 1985): quê quán làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh nhưng sinh tại Gò Bồi, xã Tùng Giản, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Ông nổi tiếng từ phong trào Thơ mới với tập Thơ thơGửi hương cho gió. Những bài được yêu thích nhất của Xuân Diệu là Thơ tình làm trong khoảng 1936 - 1944, thể hiện một triết lý bi quan, tuyệt vọng về tình ái nhưng lại có một mạch ngầm thúc giục, nhiều khi hừng hực sức sống. Nhờ đó, ông được mệnh danh là “ông hoàng thơ tình”. Là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn (1938-1940)…
(3) Chế Lan Viên (1920-1989): Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan. Sinh ở Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Tri, lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung thì thôi học, đi dạy tư kiếm sống. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của “Trường Thơ Loạn”. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn được người đương thời gọi là “Bàn thành tứ hữu” của Bình Định.
(4) Phạm Huy Thông (1916-1988): Phạm Huy thông là hậu duệ thế hệ thứ 24 của Phạm Ngũ Lão. Quê gốc ở làng Đào Xá, xã Bãi Sậy, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Ngay từ nhỏ ông đã tỏ ra là một người có trí tuệ uyên bác. Mới 16 tuổi Huy Thông đã nổi tiếng tiên phong của phong trào Thơ mới, điển hình là bài Tiếng địch sông Ô.
Năm 21 tuổi ông đỗ cử nhân Luật. Sau đó ông tiếp tục theo học chương trình đào tạo trên đại học các ngành Sử, Địa, Luật, Kinh tế, Chính trị.Sau khi tốt nghiệp cử nhân Luật tại Viện Đại học Đông Dương, năm 1937 ông sang Pháp du học. Năm 26 tuổi ông lần lượt thi đỗ Tiến sĩ Luật và Thạc sĩ sử địa tại Pháp, năm 31 tuổi ông được phong Giáo sư giữ chức uỷ viên hội đồng giáo dục tối cao của Pháp. Năm 1946 tại Paris, ông được chọn giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ở hội nghị Fontainebleau. Chính những ngày được gần gũi Hồ Chí Minh ông đã có tư tưởng độc lập dân tộc.
Ông từng đảm nhiệm các chức vụ: Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956-1967), Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội, Viện trưởng Viện khảo cổ học (1968-1988), Tổng biên tập tạp chí Khảo cổ học.
Tác phẩm Thơ: Yêu đương (1933), Anh Nga (1934), Tiếng địch sông Ô (1935); Tần Ngọc (1937).
(5) Ba Giai - Tú Xuất:  Xin xem   Truyện cười Ba Giai - Tú Xuất  (do nhà văn Nguyễn Nam Thông (5*) biên soạn, Tân Dân Thư Quán xuất bản năm 1934) NXB Hội Nhà văn tái bản, 2006.
Nhà văn Nguyễn Nam Thông (1906-1945) tên thật là Nguyễn Xuân Thông, người làng Động Dã, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Ông là tác giả: Ba Giai (1931), Tú Xuất (1930), Đàn bà dễ có mấy tay (1930), Thằng ăn mày giàu nhất tham nhất thế giới (1930), Trung - Nhật chiến tranh yếu nhân (1938), Vợ lẽ của tôi (dịch của Từ Trẩm Á - 1933)... Nhà văn Nguyễn Nam Thông từng làm chủ bút tờ Đông Tây tiểu thuyết (1937).
(6) Nhà thơ Tú Xương (1870-1907) tên thật là Trần Tế Xương, tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh. Quê ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.
 Văn học nằm ngoài những định luật của băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết. Thơ văn của Tú Xương là một trường hợp như vậy. Thể xác của Tú Xương đến nay đã hơn 100 năm nát với cỏ cây. Nhưng sự nghiệp văn chương của ông thì vẫn như một chàng trai xinh đẹp, sung sức, bất chấp mọi thử thách thời gian: Kìa ai chín suối xương không nát / Có lẽ ngàn thu tiếng vẫn còn. Người ta vẫn tin hai câu thơ này là của Nguyễn Khuyến viếng Tú Xương.
(7) Tú Mỡ, tên thật: Hồ Trọng Hiếu (1900 - 1976): sinh tại Hà Nội, là một nhà thơ trào phúng xuất sắc. Theo các nhà nghiên cứu văn học, thì với gần nửa thế kỷ cầm bút bền bỉ, ông đã có những đóng góp đáng kể đối với sự phát triển của thơ ca, đặc biệt về mặt thơ trào phúng, thời nào ông cũng là bậc thầy.
(8) Anatole France: tên thật là François-Anatole Thibault (1844 -1924) là nhà văn Pháp, đoạt giải Nobel Văn học năm 1921.
(9) Le livre de mon ami: Sách của bạn tôi -Hồi ký, 1885.
Hết

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét