CÔ GÁI SƠN TÂY VÀ ANH LÍNH BINH NHÌ
Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
Sơn Tây từ xa xưa đã là phên giậu
của kinh đô Thăng Long . “Vùng đất Sơn Tây nẩy một ông / Tuổi chửabao nhiêu văn rất hung / Sông Đà núi Tản ai
hun đúc? / Bút thánh câu thần sớm vãi vung…”
- ông này là ông Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, thi sĩ quái kiệt của
hai thế kỷ, là một trong số ít
những ngôi sao sáng chói nhất trên bầu trời văn
chương Việt Nam ở thế kỷ 20. Trong những năm cuối của thập niên 1960,
tôi đã có cơ duyên được sống và chiến đấu
(trong binh chủng Ra-đa) trên quê hương Bất Bạt của thi
sĩ Tản Đà, và cũng ở cả những huyện khác của Sơn Tây như Quốc Oai, Tùng
Thiện, Phúc Thọ…Đó
là thời kỳ chúng ta đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại
của không quân Mỹ, đơn vị Ra-đa của chúng tôi làm nhiệm vụ dẫn đường cho
không quân ta ở sân bay Hòa Lạc
…
Truyện
ngắn này không phải nói về cuộc chiến đấu ác liệt ngày đó, mà
nói về một cô gái Sơn Tây - một ký ức vẫn còn nguyên
hình nguyên khối trong những năm tháng tuổi thanh niên của tôi - một ký
ức đã thôi thúc, ép buộc tôi phải
viết bằng được cái truyện ngắn này, dù thời gian đã qua
đi gần 50 năm…
*
Lúc
mới nhập ngũ, tôi ở một đơn vị Ra-đa đóng quân trên đất Hưng
Yên nổi tiếng với đặc sản nhãn lồng và những cô thôn nữ
đa tình xinh đẹp. Nói đa tình vì các cô thôn nữ ở đây rất thích có người
yêu là lính. Mặc dù cái câu ca
“Ai ơi chớ lấy binh nhì / Năm đồng một tháng lấy gì nuôi con” được truyền
lan rất rộng, nhưng cánh lính binh nhì chúng tôi kiếm người
yêu không khó khăn gì. Nhát gái như tôi mà chỉ sau
một tuần, tôi đã có người yêu khá xinh, và nếu như lúc đó, tôi muốn có
vợ thì bố mẹ cô gái sẽ cho cưới ngay! Nhưng, lúc đó
tôi không hề biết chuyện vợ chồng là như thế nào, gọi là
yêu nhưng thực ra chỉ mới là giai đoạn đầu, tức là thích, mến mà thôi.
Đó là thời mà tình yêu của tuổi trẻ chúng tôi thật vô
tư, trong sáng (Sau này, khi đã giải ngũ, tôi có trở về
nơi đây tìm lại cô gái đã cho tôi mối tình vụng dại ấy thì được biết cô
thôn nữ bé nhỏ ngày nào đã trở thành một cán bộ
lãnh đạo cấp huyện và đã có chồng con đề huề!). Nhắc lại
cô thôn nữ Hưng Yên một chút vì có liên quan đến cô gái Sơn Tây, nhân
vật của truyện ngắn này. Do yêu cầu chiến đấu, một đơn
vị Ra-đa mới được thành lập để dẫn đường cho không quân ở
sân bay Hòa Lạc thuộc vùng đất Sơn Tây. Tôi được điều tới đơn vị mới
đó. Trước khi tôi đi Sơn Tây, mấy cô thôn nữ Hưng
Yên nói:
- Sơn Tây là vùng đồi trọc nắng cháy khét, chó ăn đá gà ăn
sỏi! Anh lên đó thì làm gì có nhãn lồng ngọt lịm nữa! Hay là anh xin ở lại đi!
- Xin sao được! - Tôi nói ngay - Quân lệnh như
sơn!
- Mà anh đã biết gì về con gái Sơn Tây chưa? - Một cô vừa
cười vừa nói - “Con gái Sơn Tây - Yếm thủng đầu chầy - Răng đen hạt mít, má hồng chôn niêu”!
- Sao
cô lại nói xấu người ta như vậy? - Mặc dù tôi rất ngạc
nhiên vì đây là lần đầu tôi nghe đọc câu đó, tôi vẫn
không tin lại có chuyện như vậy và cãi - Ở đâu cũng có người đẹp và
người xấu! Người xấu nhất Việt Nam là cô nàng Thị
Nở ở đất Nam Định mà nhà văn Nam Cao đã mô tả!
Cuộc
tranh luận bị chấm dứt vì có lệnh lên đường ngay! Cùng đi với
tôi là anh bạn binh nhì Thế Hùng. Cô người yêu của Thế
Hùng thật là đa cảm, khóc như mưa rào! Còn cô người yêu của tôi, chẳng
nói được gì, đến phút chót mới dúi vào tay tôi một
cái khăn tay nhỏ thêu hình hai con chim đang bay ríu vào
nhau trong một trái tim!
Trên đường đi Sơn Tây, thỉnh thoảng, Hùng lại đọc câu thơ: “Rứa
là hết, chiều nay ta đi mãi /Còn mong chi ngày gặp lại em ơi !...”
Tôi nói với Hùng : - Thôi cái giọng ủy mị ấy đi! Mày phải đọc
câu “Bước chân đi đầu không ngoảnh lại!...” Làm người lính thời chiến không được “vương tơ lòng”!
Hùng cười mếu máo : - Tao là con người chứ có phải gỗ đá đâu! Mà đá
cũng phải mòn dưới dòng nước chảy, “nước chảy đá mòn” đó là gì?
- Không phải tất cả đều như thế! Chúng mình phải là đá vẫn
“trơ gan cùng tuế nguyệt”! Bây giờ chúng mình đã “xếp bútnghiên theo việc binh đao” thì phải cứng rắn, mạnh mẽ, phải luôn luôn hát vang khúc quân hành “đời chúng
ta đâu cógiặclà ta cứ đi” và cương quyết “không cho chúng nó thoát! Chúng bay vào sẽ không có đường ra!” - Tôi cao hứng nói một mạch.
Hùng
ngắt lời : - Thôi, đủ rồi! Bây giờ chỉ có hai thằng, chẳng
ai ghi điểm cho mày đâu! Bây giờ tao muốn hỏi mày điều
này: cái vùng đất Sơn Tây nắng cháy khét “chó ăn đá gà ăn sỏi” ấy như
thế nào, mày đã đến đó lần nào
chưa?
- Tao
mới đến qua sách vở như mày thôi! Nhưng dù sao vẫn
không thể bỏ ngoài tai lời các thôn nữ ở Hưng Yên đã
nói. Tao rất sợ nóng. Vậy chúng ta cứ theo cái địa chỉ trong câu thơ của
Tản Đà mà đến tắm mát cái đã: “Nước rợn sông Đà con
cá nhảy, Mây trùm non Tản cái diều bay”.
Hùng
nghe nói đến tắm sông là hứng khởi ngay. Ở Hưng Yên, bơi trong
những con sông đào của công trình thủy lợi lừng danh một
thời Bắc-Hưng-Hải không đã nên hai chữ Sông Đà thật là hấp dẫn đối với
chúng tôi!
Xin
nói thêm là lần chuyển đến đơn vị mới này, chúng tôi phải tự tìm
đường mà đi, từ Hưng Yên (huyện Văn Lâm) tới Sơn Tây
(huyện Bất Bạt - quê hương thi sĩ Tản Đà). Chúng tôi đi nhờ ôtô từ Như
Quỳnh về Hà Nội, rồi nhờ xe tiếp từ
Hà Nội tới thị xã Sơn Tây, còn sau đó là đi bộ… Khỏi
phải nói sự sung sướng tột cùng của chúng tôi khi tới Sông Đà, nhảy ào
xuống rồi vùng vẫy, bơi tung tăng như con
cá!...Quê tôi ở bên bờ Sông Thao, làng quê Hùng có Sông
Lô, đều là những con sông nổi tiếng, và chúng tôi đã từng bơi vượt sông
nhiều lần, nay đến Sông Đà, chẳng lẽ lại
không dám vượt Sông Đà? Thế là tôi và Hùng quyết định
bơi qua bờ bên kia! Có lẽ do chúng tôi đi bộ nhiều và đã quá mệt mỏi nên
bơi gần tới bờ bên kia thì tôi đuối sức và bỗng nhiên có
cảm giác như bị hút tuột xuống đáy sông, rồi tôi bất
tỉnh, không biết gì nữa!
Do
sức trai trẻ và cũng là dân sông nước nên chỉ năm phút sau là tôi
đã tỉnh lại, thấy mình đang nằm trên bãi cát bờ sông bên
kia. Hùng đang ngồi nói chuyện với một cô gái cao lớn khỏe mạnh như một
vận động viên bóng chuyền, nhưng gương mặt thật
phúc hậu. Thì ra lúc tôi bị hụt hơi rồi chìm nghỉm, Hùng
vì cứu tôi mà cũng bị chìm luôn. May mà lúc đó, Tản Viên - tên cô gái,
đang chăn bò gần đó đã nhìn thấy và cứu chúng tôi
.
Nhà
Tản Viên ở bờ bên kia sông Đà, tức là phía bờ chúng tôi muốn bơi
qua, tức đối diện với làng quê của thi sĩ Tản Đà. Vì
ngưỡng mộ thi sĩ Tản Đà mà ông bố của cô gái đã đặt tên con là Tản Viên
và cũng muốn con mình trở thành thi sĩ. Song, ông chưa kịp
nhìn thấy con trưởng thành thì ông đã hi sinh ở chiến
trường Điện Biên năm Tản Viên mới năm tuổi (Tản Viên cũng sinh năm 1948,
tức bằng tuổi tôi và Hùng). Không biết sau này Tản
Viên có thành thi sĩ hay không, nhưng lúc gặp chúng tôi
thì cô đang chăn đàn bò mười con, số tài sản chính để nuôi bảy người:
ông bà nội, mẹ và bốn chị em mà Tản Viên là thứ hai. Tản
Viên cũng có giấy gọi vào đại học nhưng gia cảnh nhà cô
quá khó khăn: ông bà nội đều già yếu, mẹ cô bị thương gãy một chân trong
đợt đi dân công hỏa tuyến hồi chiến dịch Điện Biên,
cho nên người lao động chính trong nhà là cô và người
chị chỉ hơn cô một tuổi. Cùng tuổi với chúng tôi, lại cũng có cảnh ngộ
chung là đường học vấn bị đứt đoạn nên tôi, Hùng và
Tản Viên nhanh chóng trở thành những người bạn thân.
Nhưng, do chỗ đóng quân của đơn vị chúng tôi ở bên này sông, còn nhà Tản
Viên lại ở bên kia sông cho nên đầy cách trở và đó cũng
là nguyên nhân chính để có cái truyện ngắn này…
*
Đối
với con gái, lúc mới tiếp xúc, người ta thường chú ý đến hình
thức và cái đẹp hình thức quyết định hết thảy. Nhưng qua
sự phán xét của thời gian, cái vẻ đẹp hình thức không còn là yếu tố
quyết định nữa mà vẻ đẹp tâm hồn - vẻ đẹp nữ tính mới
là yếu tố quyết định. Những cô gái mà có được cả hai,
tức cả vẻ đẹp hình thức và vẻ đẹp tâm hồn thì tức là vẹn toàn: đẹp người
đẹp nết! Song, những cô gái được như vậy thật
hiếm!
Phải
nói một cách công minh rằng cô bạn Tản Viên của chúng tôi không
có gì vượt trội về vẻ đẹp hình thức, nếu chấm điểm thì
chỉ trung bình, nhưng không hiểu sao, khi tiếp xúc với Tản Viên, cả tôi
và Hùng đều không hề có ý nghĩ bình phẩm về hình
thức bên ngoài của cô, thậm chí chúng tôi còn thấy Tản
Viên rất đẹp mỗi khi nhớ tới mấy câu vần vè ác ý mà các cô thôn nữ ở
Hưng Yên đã đọc về cô gái Sơn Tây! Và điều Tản Viên khiến
tôi thật sự kinh ngạc là cô có sức khỏe phi thường: cô
có thể cầm hai sừng của con bò mộng mà ghìm đầu nó xuống đất hoặc đẩy nó
đi giật lùi! Tôi hỏi tại sao cô có sức khỏe
như vậy thì Tản Viên chỉ cười và nói: “Có lẽ từ bé, em
đã phải vật lộn với đàn bò và có thể là do ngày nào cũng bơi vượt sông
một lần”.
Chúng
tôi thường hẹn nhau ở bờ sông, chỗ lần đầu tiên gặp nhau. Mỗi
khi Tản Viên dẫn đàn bò tới bờ sông uống nước, thường là
vào buổi chiều, thì cô lại thả một con diều sáo bay vi vu trên trời để
báo hiệu cho chúng tôi biết là cô đang ở đó. Giờ đó là
lúc đơn vị chúng tôi ăn cơm chiều và nghỉ ngơi đến bảy
giờ tối là giờ sinh hoạt tập thể (hôm thì nghe nói chuyện thời sự, hôm
thì học hát, vân vân và vân vân). Từ năm giờ chiều đến
bảy giờ tối, đó là khoảng thời gian trống dài nhất để
chúng tôi có thể gặp Tản Viên. Việc đi gặp Tản Viên của chúng tôi phải
giữ bí mật vì nói chung, đơn vị cấm mọi quan hệ riêng tư
với dân nơi đóng quân. Một tuần chỉ có một lần được vào
làng xóm thoải mái gọi là đi “dân vận”, nhưng phải đi tập thể theo từng
tổ ba người. Vì thế, khi nghe thấy tiếng sáo diều của
Tản Viên, ngó về hýớng nhà cô thấy con diều sáo ðang lõ
lửng trên trời, thì Hùng đọc lên câu “mật khẩu”: Nước rợn sông Đà con cá nhảy / Mây trùm non Tản cánh
diềubay, và thế là chúng tôi lẳng lặng đi thật
nhanh đến chỗ hẹn (khoảng nửa cây số). Thường là Tản Viên chèo con
thuyền nhỏ sang bên bờ sông thuộc địa phận chúng tôi đóng quân,
rồi bơi ra giữa sông, hôm thì thi bơi, hôm thì ngồi trên
thuyền nói chuyện trên trời dưới biển. Cách một ngày, chúng tôi mới có
thể đi gặp Tản Viên được vì cách một ngày trực ban
chiến đấu một ngày. Vì thế, việc gặp gỡ của ba chúng tôi
không nhiều nhặn gì. Vậy mà chỉ ba tháng sau, những cuộc hẹn hò của
chúng tôi đã bị đại đội phó phát hiện và chuyện gì phải
xảy ra đã xảy ra!
Buổi chiều hôm ấy, khi chúng tôi vừa tới chỗ hẹn bờ sông thì
bất ngờ gặp đại đội phó Tân. Đại đội phó hỏi ngay :
- Các cậu đi đâu đấy ?
- Báo cáo thủ trưởng, chúng em đi bơi ! - Hùng nói
ngay.
- Các cậu có biết đi khỏi doanh trại 100 mét mà không được
phép là vi phạm kỷ luật quân đội không?
- Báo cáo…Chúng em đã xin phép tiểu đội trưởng! - Hùng lại
nói thay cho cả tôi, không hiểu sao nó phản ứng nhanh thế?
Đại đội phó nhếch mép cười, nói rõ từng tiếng :
- Thôi,
nói dối đủ rồi đấy! Chính tiểu đội trưởng các cậu đã báo
cáo với tôi rằng gần ba tháng nay, chiều chiều các cậu
lại hẹn hò với một cô gái bên kia sông. Các cậu ép buộc tiểu đội
trưởng phải cho các cậu “đi bơi” nếu không thì sẽ tố
cáo tiểu đội trưởng “dan díu” với bà Đào mẹ cô Mận ở
trong làng, đúng không?
Tôi
cũng nói rõ từng tiếng : - Báo cáo đại đội phó, chúng em chỉ
vô tình nhìn thấy tiểu đội trưởng “dan díu” với bà Đào,
chúng em không hề nói với tiểu đội trưởng rằng sẽ tố cáo anh ta. Còn
việc chúng em đi bơi trong giờ nghỉ tự do
là hoàn toàn hợp pháp. Thủ trưởng hãy thử hỏi chị Tình
phó chủ tịch xã xem em nói đúng không?
Đại
đội phó nghe đến mấy tiếng “chị Tình phó chủ tịch xã”
thì ngớ người, mặt đỏ bừng rồi phút chốc chuyển sang tím
tái, ánh mắt nhìn tôi như muốn tóe lửa! Tôi đọc được ánh mắt ấy: “A!
Thằng nhóc, láo! Mày chỉ là binh nhì lính quèn mà dám nắm
thóp thủ trưởng của mày à? Chúng mày đừng tưởng là lính
sinh viên đại học thì muốn làm gì cũng được! Tao sẽ cho mày đi làm “hỏa
đầu quân” hoặc đầy lên vùng biên ải cho mày trắng mắt
ra con ạ!”. Tôi vừa “đọc” đến đó thì đại đội phó gằn
giọng, nói nhanh:
- Binh nhì Hùng và binh nhì Thạch, về ngay đơn vị gặp
chính trị viên đại đội!
Tôi
vụt nghĩ: A, thì ra cuộc “bắt quả tang” này đã được tính trước!
Tôi vừa nghĩ vậy thì giật mình khi nhìn thấy Tản Viên
đang ngồi trên con thuyền nhỏ, từ từ bơi vào bờ. Đại đội phó cũng đã
nhìn thấy Tản Viên, liền đi ngay ra bờ sông, tới nơi thì con
thuyền cũng cập bờ. Cả tôi và Hùng lúc ấy đều chết đứng
như Từ Hải! Không biết đại đội phó nói gì với Tản Viên mà thấy cô để cho
ông ta lên thuyền và con thuyền bơi trở lại bên kia.
Tới giữa sông, con thuyền như dừng lại khoảng năm phút
rồi như là có sự vật lộn giữa hai người, rồi chỉ hai phút sau đó, con
thuyền lật úp. Tôi và Hùng cùng thét lên khi nhìn
thấy cảnh đó và cùng chạy như bay ra bờ sông. Chúng
tôi vừa định nhảy xuống sông thì cùng rú lên kinh ngạc khi thấy Tản Viên
nổi lên ngay sát bờ, lôi theo cả đại đội phó, đã ngất
xỉu, như một xác chết!
Chúng tôi làm hô hấp nhân tạo cho đại đội phó, rồi Hùng cõng đại đội
phó chạy về đơn vị. Tôi vội hỏi Tản Viên: - Vừa rồi xảy ra chuyện gì vậy?
-
Lúc đầu ông ta nói chở ông ta qua sông có việc khẩn cấp. Nhưng ra
tới giữa sông, ông ta nói cho ông ta “thỏa mãn” thì sẽ
tha tội cho anh và Hùng. Em không chịu và nói các anh không có tội gì
cả! Ông ta dám xúc phạm em, bảo em xấu xí như thế mà
được ông ta “chiếu cố” thì phải cảm ơn chứ, thế là em
tức quá, bóp “hạ bộ” ông ta rồi lật thuyền cho chìm luôn! Hình như ông
ta không biết bơi? Em sợ quá phải lôi ông ta vào bờ ngay
thì vừa gặp các anh tới. Chuyện chỉ có vậy thôi, anh cứ
yên tâm, ông ta không dám trả thù đâu vì sẽ bị đau dăm ngày, “đòn đau
nhớ đời” mà!
Tôi
vội chạy đuổi theo Hùng, nhưng về tới đơn vị mới kịp. Y tá đại
đội tiếp tục chăm sóc cho đại đội phó, chúng tôi vội
chạy ngay về tiểu đội, tìm tiểu đội trưởng nhưng không thấy đâu, tới giờ
sinh hoạt tổ ba người rồi mà!
Sau chuyện đó, chỉ năm ngày, đại đội phó Tân đã hồi phục sức
khỏe. Tôi và Hùng được gọi lên ban chỉ huy đại đội thì đã thấy đại đội phó đang ngồi ở đó. Đại đội phó nói luôn:
- Tác phong quân sự là ngắn gọn, chính xác. Tôi nói ngay
thế này: có lệnh của quân lực Trung đoàn điều hai đồng chí về một đơn vị ở Nghệ Tĩnh. Ngày mai lên đường!
- Rõ ! - cả tôi và Hùng đồng thanh, như là phản xạ tự
nhiên!
- Vậy
là xong việc. Còn đây là câu chuyện nói thêm - đại
đội phó “e hèm” rồi nói nhỏ nhẹ - Nếu hai cậu muốn ở
lại, tôi có thể giúp. Nhưng hai cậu cũng phải giúp tôi một việc!
Hùng nhanh nhẩu nói :
- Thủ trưởng cứ nói, đừng nói là một việc mà mười việc
chúng em cũng sẵn sàng!
- Giỏi lắm!
- Đại đội phó vỗ vai Hùng - Cậu rất hiểu
đời. Bây giờ Khu Bốn đang là biển lửa, bọn Mỹ đang tập
trung đánh phá tuyến đường huyết mạch vào Nam, các cậu vào đó khó có thể
bảo toàn sinh mạng!
- Em còn bố mẹ già và bốn đứa em nhỏ, em phải
sống để phụng dưỡng cha mẹ và nuôi các em ăn học!... - Hùng nghẹn ngào như sắp khóc!
- Tôi hiểu hoàn cảnh của cậu! Vì thế, tôi rất muốn giúp, tôi sẽ
nói với quân lực điều người khác, các cậu sẽ được ở lại!
- Em xin đội ơn Thủ trưởng!
Trong
khi Hùng đang nắm chặt lấy tay của đại đội phó van vỉ thì
tôi thấy máu trong người như sôi lên, tôi như nhìn thấy
cái điều kiện mà đại đội phó sẽ thò ra, tôi muốn nói với Hùng hãy nhận
ngay quyết định đi Khu Bốn ngay! Nhưng tôi lại chợt
nhớ tới những bức thư đẫm nước mắt của cô em gái
Hùng…Tôi hít một hơi dài và từ từ thở ra rồi ngồi im như tượng đá! Tôi
nghe thấy tiếng nói của đại đội phó như là từ ở âm phủ vọng
về:
-
Các cậu chỉ phải làm giúp tôi một việc rất nhẹ nhàng, rất dễ
dàng: đó là làm mai mối cho tôi cưới cô bạn của các cậu
là cô Tản Viên làm vợ! Tôi tuổi Thân, cô ta tuổi Tý, rất hợp duyên số,
đêm nào tôi cũng thấy Thần linh báo mộng như vậy!
Nếu làm tốt đẹp chuyện nhân duyên này, các cậu sẽ
không phải đi Khu Bốn nữa mà sẽ được ở lại, sẽ làm phù rể cho tôi!
Máu trong người tôi lại như sôi lên và không biết sự thể sẽ ra sao
nếu như Tản Viên không đột ngột xuất hiện! Tản Viên nói nhỏ nhưng tôi nghe như tiếng sấm :
- Tôi đồng ý điều kiện của đại đội phó !
Đại
đội phó còn bất ngờ hơn cả tôi và Hùng. Việc cưới hỏi đã được
định ngày: một tháng nữa sẽ ăn hỏi, ba tháng nữa sẽ đám
cưới! Đại đội phó tỏ ra rất hào phóng: cho Hùng về nhà mười ngày thăm bố
mẹ và thăng quân hàm cho chúng tôi từ Binh
nhì lên Binh Nhất! Tôi đưa Hùng cả Sáu ngàn đồng - số
tiền phụ cấp đầu tiên của anh Binh Nhất! Hùng ôm chặt lấy tôi mà khóc
như trẻ con! Tôi thì lại thấy đắng ở trong
miệng: đời lính sao mà…Tôi không dám nghĩ tiếp nữa mà
chạy đi tìm Tản Viên, hỏi cho ra nhẽ! Lúc gặp Tản Viên, cô có vẻ rất
bình thản.
- Tại sao cô lại biết chuyện chúng tôi sẽ bị điều đi chiến
trường Khu 4? Tại sao cô lại quyết định như vậy? Tại sao…- Tôi nói một hồi.
Tản Viên từ tốn nói nhỏ :
- Anh đừng hỏi gì nữa! Em không thể để các anh bị liên lụy
vì em! Anh không thấy anh Hùng rất tội nghiệp hay sao?
- Vậy cô đồng ý cưới ông ta thật hay sao? ông ta có xứng
đáng làm chồng cô không?
- Đã bảo anh đừng hỏi gì nữa! Em không bao giờ đồng ý làm
vợ ông ta, dù ông ta có là tướng tá ! Đây chỉ là kế hoãn binh để cứu các anh!
Trời
đất! Tôi như người đang bay lơ lửng trên không bỗng rơi
bịch xuống đất! Cú rơi tuy rất đau nhưng đã hiểu ra đầu
đuôi sự việc rắc rối này! Trong tình thế này, hoãn binh là kế vẹn toàn
nhất! Tôi thầm thán phục Tản Viên. Người ta nói nếu bằng
tuổi nhau thì con gái bao giờ cũng hiểu sự đời thấu đáo
hơn con trai, quả nhiên không sai!
Tuy
nhiên, tôi lại phải sống trong sự chờ đợi, thấp thỏm lo âu
vì ngày ngày nối tiếp nhau qua đi rất nhanh. Hùng hết
hạn “tranh thủ” (tranh thủ - trong thời chiến không có nghỉ phép chính
thức mà chỉ linh hoạt cho lính tráng về thăm
nhà, gọi là tranh thủ, từ này về sau không còn nữa), đã
trở lại đơn vị. Nỗi lo của chúng tôi bị nhân đôi!
Trớ
trêu thay là sự đời! Nghiệt ngã thay là số phận! Trước ngày ăn
hỏi một ngày đã xảy ra một sự cố bất ngờ: Một tốp
cường kích (máy bay ném bom) của Mỹ từ phía Tây lén bay qua đèo Yên Ngựa
(phía nam dãy núi Tản) hòng đánh trộm Hà Nội,
chúng tưởng bay sát núi như vậy sẽ tránh được sự phát
hiện của Ra-đa, nhưng chúng đã bị phát hiện và hai chiếc MIG 17 của
không quân ta đã kịp thời xuất kích, đón đánh.
Bị đánh bất ngờ, tốp máy bay cường kích của Mỹ hoảng sợ
tháo chạy hỗn loạn, thả bom lung tung để nhẹ cánh. Một quả bom đã rơi
xuống triền đồi chỗ Tản Viên đang chăn bò, và thật
không may, cô ta đã trúng mảnh bom, bị thương rất nặng!
Chúng tôi đã đưa Tản Viên đến quân y viện 5 để cấp cứu. Ai cũng nghĩ Tản
Viên khó qua khỏi, còn tôi và Hùng thì vẫn
tin rằng Tản Viên không thể chết, chúng tôi luôn mồm cầu
xin Bồ Tát, Như Lai, cầu xin các ngài cho Tản Viên sống lại, nhưng cầu
đến ngày thứ ba mà Tản Viên vẫn chưa tỉnh lại! Đại đội
phó Tân thấy vậy thì lập tức tuyên bố hủy bỏ cả đám hỏi
và đám cưới! Tôi và Hùng mừng quá, ôm lấy nhau mà không nói được gì, lại
cầu Trời, khấn Phật! Lúc đang khấn Bồ Tát trăm
tay ngàn mắt cứu khó phò nguy cho tai qua nạn khỏi thì
có tiếng nói vang lên, như là từ trên thinh không:
- Thôi đủ rồi, các anh khỏi phải cầu khấn làm gì
nữa, em đã sống lại rồi đây này!
Thì
ra là Tản Viên nói, cô ngồi dậy, nhìn chúng tôi mỉm cười,
một nụ cười hiền hậu, thánh thiện mà tôi chưa hề thấy ở
bất kỳ cô gái nào! Cả tôi và Hùng cùng trố mắt kinh ngạc rồi cùng dụi
mắt nhìn lại xem có đúng là Tản Viên đã tỉnh lại hay
không? Tản Viên lại nói, tiếng nói cứ như tiếng sáo diều
vi vu:
-
Không phải là Tản Viên thì còn là ai vào đây nữa! Em được
Thần Núi Tản và cả Thần Sông Đà phò trợ nên không thể
chết dễ dàng như vậy được! Em đã tỉnh dậy từ hôm qua nhưng vẫn cứ nằm
giả chết để kéo dài cái kế hoãn binh và nghĩ xem có kế sách
gì hay tiếp theo hay không, nhưng nghĩ mãi chẳng ra, thì
vừa lúc nghe các anh nói ông đại đội phó đã tuyên bố hủy bỏ cái ý đồ
quái gở đó!
-
Nếu ông ta không tự rút lui thì chúng tôi cũng bắt ông ta
phải rút lui!...- Tôi và Hùng tranh nhau nói nhưng thực
ra vẫn chưa nghĩ ra cách gì để buộc ông ta từ bỏ ý định đòi cưới Tản
Viên. Tản Viên như là cũng biết vậy nên cô lại cười
cười như muốn nói: “Thôi bỏ đi, đừng nghĩ đến chuyện này
nữa!”…
*
Tản
Viên ra viện ngay và phải ba ngày sau vết thương mới lành và lên
da non. Chúng tôi đang bàn tính làm đại tiệc tại nhà Tản
Viên để ăn mừng “tai qua nạn khỏi” thì đơn vị được lệnh cơ động. Thế
là đành phải chia tay Tản Viên…Tưởng rằng chỉ di
chuyển loanh quanh qua Quốc Oai, Tùng Thiện, Phúc Thọ
rồi lại quay về Bất Bạt như mọi khi, ai ngờ đúng chiều Ba mươi Tết năm
đó, chúng tôi đươc lệnh “hành quân thần tốc” vào
tận chiến trường Khu Bốn!...
…
Đời lính thời chiến là như vậy, thoắt đến thoắt đi như chim!...Đoàn
xe máy móc, khí tài của đơn vị chúng tôi hình như đã tới
đất Thanh Hóa anh hùng. Tôi ngồi trong ca-bin của xe hiện sóng mà nửa
tỉnh nửa mê, thỉnh thoảng đầu đập vào khoang cửa ca-bin
là tỉnh, còn thì như đang bơi trên sông Đà cùng với Tản
Viên, cùng với câu thơ “ mật khẩu”: Nước rợn sông Đà con cá nhảy / Mây trùm non Tản cánh diều
bay!
Hình
như tiếng anh Lạc lái xe nói: “Yêu rồi chứ gì? Thế mà nói chỉ là
bạn! Nếu đã yêu rồi thì khổ đấy, vì đời lính thời chiến
không thể hành quân với chữ Yêu!...Hình như Giao thừa đến rồi! Đây là
cái Tết thứ ba xa vợ con!...”. Tôi nhìn ra xung quanh,
tiếng pháo nổ ran khắp nơi, các phía chân trời đều có
chớp sáng nhằng nhằng, vài quả pháo sáng lủng lẳng đây đó, trong tiếng
pháo râm ran có cả tiếng bom rền!...
Sài Gòn, 2009, 2010
Đỗ Ngọc Thạch
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét